Dự án luật hành nghề Kiến Trúc Sư: SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT HÀNH NGHỀ KIẾN TRÚC SƯ



1.1.   Nghề thiết kế kiến trúc là một trong các nghề đặc thù có  tác động trực tiếp đến sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trƣờng và góp phần phát triển nền văn hóa dân tộc – Luật Hành nghề Kiến trúc sư là cơ sở để kiểm soát chặt chẽ hành nghề Kiến trúc sư nhằm phục vụ việc bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, toàn xã hội và đất nước.

Mỗi quốc gia, Nhà nước chỉ tập trung kiểm soát việc hành nghề nghiêm ngặt đối với một số nghề nhạy cảm đặc thù có ảnh hƣởng trực tiếp đến con người, sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đất nước. Nghề kiến trúc là một trong số các nghề đó.
Nghề kiến trúc có nhiệm vụ rất vinh quang, có nhiệm vụ thiết kế chỗ ở, sáng tạo ra những công trình kiến trúc (ngôi nhà, đô thị, khu dân cƣ nông thôn, các vùng lãnh thổ...), góp phần tạo lập môi trƣờng sống tiện nghi, mỹ quan và bền vững, cũng như thỏa mãn tối đa các nhu cầu sống, làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, đi lại của con người và toàn xã hội.
Tạo lập một môi trƣờng sống chất lƣợng tốt rất tốn kém, ảnh hƣởng đến vận mệnh, tƣơng lai của từng gia đình đất nước. Nhiệm vụ của các kiến trúc sư là người có trách nhiệm đƣa ra các ý tƣởng, giải pháp đúng, sáng tạo có sức thuyết phục cho các chủ đầu tƣ (khách hàng) và người quản lý, đảm bảo tính tƣ tƣởng, công năng, mỹ quan, tiện nghi, kinh tế bền vững của công trình kiến trúc.
Muốn làm được điều này, các kiến trúc sư phải được đào tạo bài bản theo một chế độ, lộ trình nghiêm ngặt việc hành nghề Kiến trúc sư phải được tổ chức quản lý, kiểm soát rất chặt chẽ. Có làm như vậy thì lợi ích của khách hàng xã hội mới được đảm bảo.
Nói một cách khác, Luật Kiến trúc sư trƣớc hết nhằm nâng cao  điều kiện năng lực hành nghề của Kiến trúc sư để có thể cung cấp các dịch vụ tốt nhất, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân và  của  toàn xã hội về sự nghiệp hiện đại hóa của đất nước.

1.2.  Muốn xây dựng một nền kiến trúc tiên tiến, trƣớc hết phải có đội ngũ kiến trúc sư hành nghề đủ tiêu chuẩn, điều kiện năng lực; được đào tạo và đào tạo thường xuyên và phải tổ chức hành nghề một cách có quy củ và có hệ thống. Luật hành nghề Kiến trúc sư là  cơ sở để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ này.



Nền Kiến trúc Việt Nam đã được hình thành phát triển từ lâu đời, để lại nhiều di sản văn hóa lịch sử có ý nghĩa không chỉ đối với mỗi vùng, miền, cả quốc gia, có tầm ảnh hƣởng đến khu vực quốc tế.
Nền kiến trúc Việt Nam được đánh dấu bằng mốc lịch sử quan trọng từ những năm 30 của thế kỷ XX với sự xuất hiện của một số kiến trúc sư người Việt Nam, sự tham gia hành nghề của một số tổ chức, cá nhân kiến trúc hành nghề nước ngoài. khu vực phía Nam, trƣớc năm 1975 đã có Kiến trúc sư Đoàn là Nghiệp đoàn đầu tiên của Việt Nam dành cho các kiến trúc sư hành nghề đã từng hoạt động trong một thời gian khá dài.
Hiện nay, đội ngũ kiến trúc sư của Việt Nam đã lên đến gần 20.000 người, với gần 30 cơ sở đào tạo. Ngoài ra, nhiều kiến trúc sư, cử nhân kiến trúc tốt nghiệp ở nước ngoài trở về bổ sung cho lực lƣợng kiến trúc sư ngày càng lớn hơn mỗi năm.
Tuy vậy, lực lƣợng kiến trúc sư đông nhưng không mạnh, một phần là do chất lƣợng đào tạo kiến trúc sư tại nhiều cơ sở còn quá kém, phần khác là do không có môi trƣờng hành nghề phù hợp. Do đó, đến nay nước ta vẫn chƣa có được những kiến trúc sư có tài, có tầm làm trụ cột trong sự nghiệp xây dựng nền kiến trúc vùng, miền, quốc gia. Trong hoạt động hành nghề, một bộ phận kiến trúc sư không có đạo đức  nghề nghiệp. Do không được đào tạo lại thường xuyên một cách có hệ thống, nhiều kiến trúc sư hành nghề còn thiếu kiến thức, kỹ năng thái độ  phục vụ. Điều này có ảnh hƣởng đến chất lƣợng phục vụ và  sáng tạo. Một khi lực lƣợng kiến trúc sư cả nước không được tập hợp thì khó có thể phát huy hết vai trò, trách nhiệm và sức mạnh tổng hợp trong việc thực hiện các nhiệm vụ to lớn là xây dựng nền kiến trúc tiên tiến của  nước nhà Đảng, Nhà nước nhân dân giao phó.
Luật hành nghề Kiến trúc sư được ban hành sẽ góp phần tăng cƣờng hơn nữa vai trò của cơ quan quản nhà nước trách nhiệm của tổ chức xã hội nghề nghiệp trong việc đƣa ra điều kiện năng lực của kiến trúc sư hành nghề, sắp xếp lại các cơ sở đào tạo đào tạo lại các kiến trúc sư, triển khai đăng hành nghề kiến trúc trong nước kiến trúc sư nước ngoài; sắp xếp lại các tổ chức hành nghề kiến trúc sư, hình thành hệ thống tổ chức xã hội nghề nghiệp của kiến trúc sư; tạo điều kiện hành nghề gắn với việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và Quy chế sửa đổi thiết kế kiến trúc công trình kiến trúc, xử lý vi phạm hành nghề Kiến trúc quản hành nghề Kiến trúc sư...

1.3.  Đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về hành nghề kiến trúc nhưng chƣa thỏa đáng và công tác quản lý, hành nghề kiến trúc sư ở Việt Nam vẫn còn rất bất cập. Luật hành nghề kiến trúc ban hành sẽ khắc phục được tồn tại, yếu kém này.



Ngày 16/4/1993, Bộ trƣởng Bộ Xây dựng đã có Quyết định số 91/BXD-DT về việc ban hành Quy chế hành nghề Kiến trúc sư, trong đó đã có quy định yêu cầu đối với việc hành nghề kiến trúc sư, việc xét, cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc sư, nghĩa vụ, quyền hạn và xử lý vi phạm trong hành nghề Kiến trúc sư.
Ngày 25/8/1993, Bộ trƣởng Bộ Xây dựng có Thông tƣ hướng dẫn chi tiết về thủ tục đăng ký và cấp chứng chỉ hành nghề Kiến trúc sư.
Ngày 17/4/1993, Bộ trƣởng Bộ Xây dựng đã có Quyết định số 92/BXD/GĐ ban hành quy chế khảo sát xây dựng, thiết kế quy hoạch xây dựng, thiết kế công trình xây dựng.
Các văn bản trên bƣớc đầu đã đi vào cuộc sống có tác dụng nhất định đối với công tác quản Nhà nước về hành nghề kiến trúc sư trong suốt giai đoạn từ năm 1993 – 2003.
Năm 2003, Luật Xây dựng đã được Quốc hội ban hành được sửa đổi vào năm 2009. Luật Quy hoạch đô thị được Quốc hội ban hành năm 2009. Một trong ba trụ cột lớn của các Luật trên là quy định điều kiện năng lực của các tổ chức, cá nhân hành nghề trong hoạt động xây dựng thiết kế quy hoạch đô thị. Các quy định của Quốc hội tại các  Luật trên đã được Chính phủ quy định chi tiết trong Nghị định số 12/02/2009 về quản dự án đầu tƣ xây dựng công trình Nghị định số 37/2010/ND-CP ngày 07/4/2010 của Chính phủ về lập, thẩm định, phê duyệt quản quy hoạch.
Việc ban hành Luật Xây dựng các văn bản thi hành Luật của Chính phủ từ năm 2003 đến nay đã tạo bƣớc chuyển quan trọng trong công tác quản lý hành nghề xây dựng, trong đó có hành nghề Kiến trúc  sư của Việt Nam.
Đến nay, Nhà nước đã ban hành khoảng 50 văn bản quy định và định hướng cho công tác hành nghề Kiến trúc sư, nổi bật hơn là cả Bộ luật Dân sự, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch Đô thị, Luật Sở hữu trí tuệ và các định hướng chiến lƣợc như : Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020; Định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2020; Nghị định số 29/2007/ND-CP ngày 27/02/2007 của Chính phủ về quản lý kiến trúc đô thị; Nghị định số 38/2010/ND-CP ngày 07/04/2010 của Chính phủ về quản lý không gian kiến trúc, cảnh quan đô thị...
Ngày 24/01/2003, Bộ Văn hóa Thông tin Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tƣ liên tịch số 04/2003/TTLT-BVHTT-BXD, hướng dẫn về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc để cụ thể hóa các Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 Nghị định số 60/CP ngày 6/6/1997 thi hành  bộ Luật Dân sự của Chính phủ. Mặc dù số lƣợng những văn bản được ban hành liên quan đến hành nghề Kiến trúc sư là đáng kể, nhưng   lại


thiếu cụ thể đối với nghề kiến trúc, chƣa phù hợp với yêu cầu quản lý với nghề kiến trúc mang tính đặc thù. Nhiều quy định còn chung chung, không phù hợp với thông lệ quốc tế và ít có tác dụng đối với việc đào tạo xây dựng đội ngũ Kiến trúc sư hành nghề chuyên nghiệp và các điều kiện để Kiến trúc sư hành nghề có thể cung cấp các dịch vụ đạt chất lƣợng; ngoài ra, chƣa phát huy được vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp của kiến trúc sư trong việc tham gia phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước là Bộ Xây dựng trong đào tạo nghề kiến trúc sư, cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc sư, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc đào tạo, hành nghề kiến trúc sư; đó là các Đoàn Kiến trúc sư (Board of Architects).
Tại các văn bản quy định về quản lý kiến trúc hành nghề kiến trúc sư như: Luật Xây dựng số 16/2003/QH11, Luật Quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12; Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11; Luật số 36/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005; Nghị định số 08/2005/ND-CP ngày 24/01/2005 của Chính phủ về quy hoạch đô thị; Nghị định số 12/2009/ND-CP của Chính phủ về quản  lý dự án đầu tƣ xây dựng công trình; Nghị định số 37/2010/ND-CP của Chính phủ về lập, thẩm định, phê duyệt quản  lý  quy hoạch  đô thị; Nghị định số 38/2010/ND-CP về quản lý không gian kiến trúc, cảnh quan đô thị; Quyết định số 112/2002/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Định hướng phát triển Kiến trúc Việt Nam đến năm 2020, tuy đã có nhiều quy định tốt, nhưng vẫn thiếu hệ thống, hạn chế không thống nhất. Ngoài ra các quy định này còn nằm rải rác tại các văn bản khác nhau, chủ yếu ở các Nghị định của Chính phủ nên hiệu lực quản lý chƣa cao.
Vì những lý do trên mà những bất cập trong quản lý và hành nghề kiến trúc sư vẫn tồn tại. Ví dụ như:
a.   Môi trƣờng cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ vấn kiến trúc thiếu minh bạch bình đẳng. Tình trạng xem thường lực lƣợng vấn kiến trúc trong nước, coi trọng kiến trúc hành nghề nước ngoài rất phổ biến, đặc biệt là các công trình lớn sử dụng vốn NSNN.
Luật đấu thầu có điều khoản đi ngƣợc bản chất nghề sáng tác kiến trúc, làm cho các công trình kiến trúc không có tác giả.
b.   vấn kiến trúc là một lĩnh vực đặc thù chƣa được pháp luật khẳng định mới chỉ quy định ở mức khái quát nên còn gặp rất nhiều khó khăn trong thực tế.
Hình thức thi tuyển kiến trúc đang là cách thức phổ biến trong việc giao thầu thiết kế. Tuy nhiên phương thức này thường xảy ra những bất cập như: Đồ án kiến trúc được đánh giá cao nhất, nhưng lại không được đƣa vào thực hiện; những ý tƣởng hay bị biến đổi hầu như hoàn toàn  do


tác động của chủ đầu tƣ; đơn vị đứng tên dự thi không phải là tác giả đồ án và còn khá phổ biến hiện tượng dàn xếp trong thi tuyển kiến trúc.
c.   Việc quản hành nghề Kiến trúc sau khi được cấp chứng chỉ theo quy định hiện nay là một việc không khả thi, dẫn đến quản lý hành nghề Kiến trúc sư ở nước ta đang bị buông lỏng. Các cơ quan Nhà nước hầu như không thể kiểm soát được hoạt động của hàng nghìn kiến trúc sư có chứng chỉ, đặc biệt khi họ hành nghề độc lập và đạo đức nghề nghiệp của họ.
d.   Vấn đề thù lao và thiết kế phí còn quá thấp so với đòi hỏi của công việc sáng tạo của kiến trúc sư hành nghề chỉ tính bằng chi phí văn phòng phẩm và nguyên vật liệu, ngày công... chƣa tính đến bản chất lao động sáng tạo đặc thù, trách nhiệm lâu dài về tinh thần vật chất trong sử dụng công trình. Do đó chƣa phù hợp không bình đẳng với vấn nước ngoài.
e.   Hành nghề kiến trúc sư là quá trình sáng tạo. Sản phẩm do kiến trúc sư tạo nên là đơn chiếc, vừa sáng tạo nghệ thuật vừa mang tính kỹ thuật. Quá trình sáng tạo của kiến trúc sư, từ ý tƣởng đến triển khai hoàn thiện công trình ở ngoài thực tế là một quá trình liên tục, sự phối hợp của nhiều người nhiều ngành nghề khác nhau. Do đó, việc  đào tạo kiến thức, kỹ năng làm việc thái độ ứng xử nghề nghiệp của họ là rất quan trọng, nhưng chƣa được quan tâm, v.v...

1.4.   Nhu cầu và sự cần thiết phải mở cửa và hội nhập đối với  thị trƣờng vấn thiết kế kiến trúc nước ta.

Trên thế giới đã có nhiều nước ban hành Luật Kiến trúc sư như Pháp, Nga, Úc, New Zealand, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippin và nhiều nước khác trong khối ASEAN. Phần lớn các nước ASEAN đã có Luật Kiến trúc sư theo sự cam kết của khối. Hiện nay, chỉ còn một số nước trong ASEAN chƣa có Luật Kiến trúc sư gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma.
Từ năm 1958, Hội Kiến trúc sư Việt Nam đã ra nhập Hội Kiến trúc sư Thế giới (UIA). Hiện nay Tổ chức này đã có 134 thành viên UIA thường xuyên đã có các Hiến chƣơng và cƣơng lĩnh để định hướng hoạt động thiết kế kiến trúc, đào tạo kiến trúc sư, đặc biệt là hành nghề Kiến trúc sư. Đối với mỗi quốc gia, Hội Kiến trúc sư có nhiệm vụ cụ thể hóa những hoạt động này theo điều kiện thực tế của nước mình.
Những năm 80 gần đây, Hội Kiến trúc sư Việt Nam là thành  viên của Hiệp hội Kiến trúc sư châu Á – ARCASIA. Hầu hết các nước tham gia Tổ chức này đều đã có Luật Kiến trúc sư hay còn gọi là Luật Hành nghề Kiến trúc sư để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quản lý hoạt động trong lĩnh vực kiến trúc, hành nghề của kiến trúc sư, các quyền và trách nhiệm hội của kiến trúc sư.


Ngoài ra, Việt Nam đã là thành viên của UNDP, các khối ASEAN, AFTA, WTO và nhiều tổ chức quốc tế khác. Trong lĩnh vực hành nghề kiến trúc sư, các khuyến nghị hành nghề Kiến trúc của UIA ban hành đã được WTO đồng bảo trợ, cơ bản vận hành theo Luật Kiến trúc sư các nước. Tập quán quốc tế xem đây là cơ sở hành nghề Kiến trúc sư hợp lý nhất để phát huy giá trị nghề nghiệp Kiến trúc sư và là cơ sở để triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế trong mối quan hệ đa phương.
Tóm lại, việc ban hành Luật hành nghề Kiến trúc sư là phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện Việt Nam tham gia hội nhập và giới Kiến trúc sư Việt Nam có thể bay cao vƣơn xa ra Thế giới trong xu thế toàn cầu hóa.

1.5.   Quản lý hành nghề kiến trúc nước ngoài ở Việt Nam còn bấp cập, không chặt chẽ do thiếu Luật hành nghề kiến trúc sư.

Trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam đang là một thị trƣờng hấp dẫn về vấn thiết kế quy hoạch kiến trúcxây dựng. Nhiều tổ chức, nhân nước ngoài đến Việt Nam hành nghề kiến trúc sư, nhưng không được quản và thực tế Việt Nam chƣa có đủ cơ sở pháp luật để quản lý, nên hoạt động hành nghề của họ còn hạn chế, từ đó đã tạo ra sự cạnh tranh không rõ ràng, kém tác dụng. Nếu không có pháp luật quản việc hành nghề Kiến trúc sư nước ngoài theo hướng mở cửa hội nhập, thì có thể dẫn đến những tác động tiêu cực trong công tác hành nghề kiến trúc nước ngoài Việt Nam.

1.6.  Luật hành nghề kiến trúc góp phần tăng cƣờng quản lý Nhà nước và vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của Kiến trúc sư hành nghề, đối với các kiến trúc sư hành nghề và hoạt động hành nghề.

Vai trò quản lý nhà nước của Chính phủ, Bộ Xây dựng là cơ quan chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ; và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng sẽ được tăng cƣờng trong các khâu tổ chức, giám sát hoạt động thanh tra, kiểm tra công tác hành nghề kiến trúc sư. Tuy nhiên, quản lý nhà nước không thể đảm nhiệm một cách hiệu quả công việc này và rất cần vai trò tự quản các Đoàn Kiến trúc sư là các tổ chức xã hội nghề nghiệp của của kiến trúc sư hành nghề.
Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của kiến trúc sư với trách nhiệm tự quản tạo điều kiện cho Kiến trúc sư hành nghề, tổ chức hoạt động kiến trúc sư hành nghề trong việc thực thi pháp luật, đào tạo nghề nghiệp, bảo vệ lợi ích chính đáng của kiến trúc sư hành nghề, đồng thời giám sát đạo đức nghề nghiệp của họ trong hành nghề kiến trúc sư.


Người dân và toàn xã hội sẽ được hƣởng lợi từ hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước và sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp của kiến trúc sư hành nghề đối với các hoạt động hành nghề kiến trúc sư.
Share on Google Plus

About Xinh Blog

Đây là 1 website thiết kế kiến trúc nhà ở tổng hợp từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung bài đăng này.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét